Pháp luật cho phép cá nhân nhận thế chấp quyền sử dụng đất từ cá nhân khác.
36.net.vn xin chia sẻ với quý vị và các bạn kinh nghiệm nhỏ hữu ích về quy định mới nhất về việc thế chấp quyền sử dụng đất giữa các cá nhân theo Bộ luật Dân sự 2015 và các Nghị định liên quan.
1. Cá nhân có được nhận thế chấp quyền sử dụng đất không?
Theo Điều 317 Bộ luật Dân sự 2015, cá nhân hoàn toàn có quyền nhận thế chấp quyền sử dụng đất từ một cá nhân khác, miễn là đáp ứng các điều kiện pháp lý.
Cụ thể:
- Bên nhận thế chấp phải là công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
- Việc thế chấp không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội.
- Nếu thỏa thuận có lãi suất, mức lãi phải tuân thủ quy định tại Điều 357, 466 và 468 Bộ luật Dân sự 2015.
2. Quyền và nghĩa vụ trong quá trình thế chấp đất
- Khi thế chấp quyền sử dụng đất, chủ sở hữu vẫn giữ quyền sử dụng đất, không cần bàn giao đất cho bên nhận thế chấp. Tuy nhiên, họ phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ như đã cam kết trong hợp đồng thế chấp.
- Bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp nếu bên thế chấp không thực hiện đúng nghĩa vụ – tuy nhiên phải đảm bảo tuân thủ quy trình xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành.
3. Có bắt buộc đăng ký biện pháp bảo đảm không?
Câu trả lời là CÓ.
Theo Điều 292 Bộ luật Dân sự 2015 và Nghị định 99/2022/NĐ-CP, việc đăng ký biện pháp bảo đảm là bắt buộc trong trường hợp cá nhân nhận thế chấp quyền sử dụng đất từ cá nhân khác. Việc này nhằm:
- Ghi nhận thông tin vào Sổ đăng ký hoặc Cơ sở dữ liệu quốc gia.
- Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên.
- Tránh phát sinh tranh chấp về sau.
4. Những lưu ý quan trọng
- Nên công chứng hợp đồng thế chấp tại tổ chức hành nghề công chứng để đảm bảo tính pháp lý.
- Việc thế chấp chỉ có hiệu lực khi đã đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền.
- Cần rà soát kỹ lưỡng các điều khoản hợp đồng, nhất là về nghĩa vụ thanh toán, thời hạn thế chấp, và quyền xử lý tài sản nếu có tranh chấp.
Việc thế chấp quyền sử dụng đất giữa cá nhân với cá nhân là hợp pháp, nhưng cần đáp ứng đầy đủ điều kiện pháp luật và thực hiện thủ tục đăng ký biện pháp bảo đảm đúng quy định. Đây là một hình thức đảm bảo quyền lợi và tránh rủi ro pháp lý trong các giao dịch dân sự.